Di tích lịch sử và lễ hội
Nhân dân Xuân Giang từ xa xưa vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc ngoại xâm sâu sắc. Theo truyền thuyết trong dân gian, đời vua Hùng thứ 6, giặc Ân đem quân xâm lược nước ta, nhà vua hạ “Chiếu chỉ” cầu người tài đánh giặc. Người anh hùng Gióng (người làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm) đã phò vua đánh giặc cứu nước, được người xưa tôn là Thánh Gióng. Trên đường chỉ huy quân sỹ dẹp giặc, Thánh Gióng có dừng chân ở địa phận xã Xuân Giang ngày nay. Nhân dân trong vùng lấy cỏ, nước cho ngựa trắng của Thánh Gióng ăn. Khi dẹp xong giặc Ân, Thánh Gióng lên đỉnh núi Sóc, nhìn lại quê hương đất nước, cởi áo giáp sắt vắt lên cây trầm hương rồi cả người lẫn ngựa bay về trời. Nhớ công ơn người anh hùng Thánh Gióng, nhân dân huyện Sóc Sơn lập đền thờ ông dưới chân núi Sóc, gọi là Đền Sóc. Tại thôn Yên Sào xã Xuân Giang, nhân dân lập đền thờ ngựa trắng của Thánh Gióng gọi là đền Bạch Đa. Vào ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch hàng năm, nhân dân Xuân Giang lại tổ chức rước cỏ voi lên Đền Sóc tham dự lễ hội, ôn lại truyền thống lịch sử hào hùng của quê hương.
Lễ rước cỏ Voi của nhân dân xã Xuân Giang
Tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân Xuân Giang còn để lại dấu tích tại khu thành Tiên Phúc thuộc địa phận thôn Ngọc Hà (một phần thuộc thôn Tiên Tảo - xã Việt Long ngày nay). Hưởng ứng cuộc đấu tranh chống giặc phương Bắc do triều đình phát động, nhân dân địa phương đào hào, đắp thành rộng trên 10 mẫu (làng Ngọc Hà 7 mẫu, làng Tiên Tảo 3 mẫu). Trong thành có 2 ao chứa nước, 4 cổng lớn ra vào ở 4 hướng hiện tại khu vực cổng phía Đông còn di tích ngôi mà ông Voi đánh trận), nhà kho nhằm phục vụ đời sống sinh hoạt của nhân dân. Bình định xong giặc ngoại xâm, thành Tiên Phúc trở thành đơn vị hành chính và được đổi tên là phủ Thiên Phúc có các khu phố cho dân ở ngoài phủ, khu chợ (Đồng chợ), khu nghĩa trang, khu vườn hội (khu diễn ra các lễ hội)...
Năm 548, thời Triệu Việt Vương, tướng Trương Hống và Trương Hát lập căn cứ chiêu mộ quân sỹ tại thành Tiên Phúc. Nhân dân trong xã nhiệt tình giúp đỡ nghĩa quân lương thực, thực phẩm đồng thời động viên con em gia nhập nghĩa quân đánh giặc. Sau khi hai tướng Trương Hống, Trương Hát mất, nhân dân Xuân Giang lập đình thờ. Hiện, cả 6 ngôi đình tại 5 thôn trong xã đều thờ hai tướng Trương Hống và Trương Hát.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đặt ách thống trị trên đất nước ta, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của các sĩ phu yêu nước nổ ra từ Nam chí Bắc. Ở Xuân Giang, khi Đề Thám dấy binh chống Pháp, một số người dân trong xã bị quân Pháp bắt đi lính đã bỏ hàng ngũ địch theo nghĩa quân Đề Thám như các ông: Nguyễn Văn Tích, Nguyễn Văn Sử (thôn Ngọc Hà), Nguyễn Văn Bé (Quản Bé) thôn Đại Tảo...
Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc chống Pháp và chống Mỹ, nhân dân Xuân Giang lại cùng nhau đoàn kết, vượt qua vô vàn khó khăn, thử thách, dũng cảm, kiên cường chiến đấu, góp phần làm nên chiến thắng lẫy lừng của cả dân tộc. Những trang sử vàng đầy hào hùng và khí phách ấy mãi là niềm tự hào lớn lao của các thế hệ người dân Xuân Giang, là động lực để nhân dân Xuân Giang nỗ lực phấn đấu xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Xuân Giang cũng là vùng đất có truyền thống văn hoá, hiếu học từ ngàn xưa. Thế kỷ XVI (năm 1542) cụ Đỗ Hiển (33 tuổi, người thôn Xuân Tảo) thi đỗ Tam Giáp Đồng Tiến sỹ khoa Giáp Tuất, đời vua Mạc Mậu Hợp. Cụ làm quan đến chức thừa chính sứ. Sau khi triều đình nhà Mạc bị thất thế, cụ lại làm quan cho nhà Lê.
Thế kỷ XIX (năm 1853) đời vua Tự Đức, cụ Nguyễn Mậu Cẩn (thôn Lai Cách) thi đỗ cử nhân, cụ Quý (thôn Xuân Tảo) đỗ tiến sỹ, làm quan giảng và thầy dạy con vua tại triều đình Huế..
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các lớp nho học được mở ở các thôn trong xã với các cụ đồ như: cụ Chử, cụ Hằng (thôn Đại Tảo), cụ Nhượng, cụ Cấn (thôn Xuân Tảo), cụ Tạo (thôn Ngọc Hà).
Truyền thống, nét đẹp văn hoá đặc sắc của vùng quê Xuân Giang còn được thể hiện qua các lễ hội truyền thống gắn với hệ thống đình, đền, chùa nằm rải rác ở các thôn xóm trong xã. Theo một số dấu tích còn sót lại có thể thấy đến Bạch Đa (thôn Yên Sào) và Văn Miếu (thôn Đại Tảo) được xây dựng khá sớm vào khoảng thế kỷ XIII. Hai công trình này được coi là biểu tượng của tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm, tinh thần hiếu học của nhân dân Xuân Giang. Cùng với hai công trình trên, 5 thôn trong xã có 6 ngôi chùa trong đó điển hình là chùa Nhất Giáp và Tam Giáp (còn gọi là chùa Tháp) là những công trình kiến trúc cổ, đẹp, điêu khắc tinh xảo. Trong nhân gian trước đây vẫn truyền tụng câu ca dao: “Thứ nhất đến Bạch Đa, thứ hai chùa Tháp, thứ ba Mô-dền”. Tuy nhiên, từ năm 1947 đến năm 1949 khi thực dân Pháp mở rộng vị trí đánh chiếm đến vùng trung du Bắc Bộ, chúng càn quét, đốt phá hầu hết các đình, chùa ở Xuân Giang cũng như nhiều đình chùa ở các địa phương khác. Trong những năm đổi mới sau này, khi đời sống của người dân đã sung túc hơn, các đình, chùa được phục dựng, tu tạo nhằm đáp ứng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Hàng năm, cứ vào dịp tháng 9 âm lịch, các thôn trong xã lại tổ chức các lễ hội tại các đình, chùa nhằm ôn lại truyền thống hào hùng của quê hương đồng thời giáo dục thế hệ trẻ thêm yêu mảnh đất quê hương mình.
Cùng với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, truyền thống văn hóa, hiếu học, cầu tiến bộ, nhân dân Xuân Giang còn có truyền thống cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất, đoàn kết, nỗ lực chế ngự thiên nhiên, duy trì và bảo vệ cuộc sống. Theo một số cụ cao niên trong xã kể lại, cách đây hàng trăm năm, nhân dân thôn Xuân Tảo, Ngọc Hà và Đại Tảo đã huy động hàng nghìn ngày công đào, đắp 6.400 m để quai (chống lụt dưới cấp 3), đảm bảo sản xuất cho gần 200 mẫu lúa và hoa màu thuộc đồng Trầm và đồng Kênh cho đến ngày nay.